Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ Tháng 12, 2000

Sơn chi tử chữa đái dắt

Hình ảnh
Sơn chi tử là vị thuốc từ quả dành dành núi (Gardenia stenophylla Merr.) thuộc họ cà phê (Rubiaceac), tên khác là thủy hoàng chi, thường mọc ở ven bờ suối hoặc chân đồi giáp với ruộng nước. Khi dùng, ngâm quả vào nước sôi hoặc đem đồ khoảng nửa giờ rồi bóc vỏ lấy nhân. Nhân có thể để sống có tác dụng thanh nhiệt, sao qua dùng chín để tả hỏa hoặc sao đen để cầm máu. Quả dành dành. Trong y học cổ truyền, sơn chi tử có vị đắng, tính hàn, có tác dụng tả hỏa, giải độc, lợi tiểu, chỉ huyết, được dùng trong những trường hợp sau: Chữa đái ít, đái buốt, đái dắt: sơn chi tử, mộc thông, hạt mã đề, cù mạch, biển súc, hoạt thạch mỗi vị 12g; đại hoàng 8g; cam thảo nướng 6g. Sắc nước uống ngày 1 thang. Chữa tinh hoàn sưng đau: sơn chi tử (sao đen) 30g, tiểu hồi (sao với muối) 30g, hạt quýt (sao với giấm) 30g, hạt vải 30g, ích trí nhân 20g, hạt cau rừng 15g, thanh bì (sao với dầu vừng) 18g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, mỗi lần uống với 6g cùng rượu vào lúc đói. Nếu không uống được ruợu, lấy 10 sợi cỏ

Tỏi: vị thuốc trị tăng huyết áp, trợ tiêu hóa

Hình ảnh
Tỏi từ lâu đã được con người biết đến không chỉ là gia vị làm cho các món ăn thêm phần hấp dẫn và ngon miệng mà nó còn là một vị thuốc chữa bệnh kỳ diệu của thiên nhiên. Tỏi chứa allicin, allistatin, allithiaminee, citral, arylcamphol, protein, lipid, carbohydrate, các sinh tố B1, B2, C, PP và các khoáng chất Ca, P, Fe. Có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, chống đông máu và ngăn xơ cứng động mạch, trợ tim, lợi niệu, hạ mỡ máu, giải độc. Theo Đông y, tỏi vị cay, tính ôn; vào tỳ, vị và phế. Có tác dụng điều vị, khai trợ tiêu hoá, giải uất tiêu tích (ôn trung hành trệ), chỉ khái trừ đàm, sát trùng giải độc. Dùng làm gia vị và cho người đau quặn bụng do lạnh, ăn uống không tiêu, kiết lỵ tiêu chảy, ho gà trạng thái tắc ruột cơ năng, tăng huyết áp, tăng mỡ máu, côn trùng cắn đốt. Liều dùng 5 - 20g, nghiền đập vụn cho vào thực phẩm. Một số bài thuốc có tỏi Trị giun khỏi ngứa: Bài 1: tỏi 200g bóc vỏ, giã nát, thêm 2.000ml nước, ngâm 24 giờ, lấy nước. Buổi tối trước khi đi ngủ, lấy nước rửa hậu

Cây tề thái chữa xuất huyết, lợi niệu

Hình ảnh
Tên khác: cây tề, địa mễ thái hay tề thái, cỏ tam giác. Tên khoa học: Capsella bursa - pastoris (L.) Medic., họ cải (Brassicaceae). Tề thái là loại cỏ mọc hoang ở miền Bắc nước ta. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây. Trong dân gian cũng dùng để nấu cháo, ép nước tươi để uống hoặc làm bánh dạng bánh khúc tề thái, dùng cho các loại xuất huyết, phù nề, đau mắt đỏ, viêm đường tiết niệu. Tề thái nấu thịt nạc thích hợp với phụ nữ kinh nguyệt quá nhiều. Tề thái có các alkaloid acid ascorbic và nhiều acid khác. Ngoài ra còn có tinh dầu, caroten, các sinh tố B1, B2, các khoáng chất K, Ca, Mn, Na, Fe... Theo Đông y, tề thái vị ngọt, tính ấm; vào can và vị. Có tác dụng bổ tỳ kiện vị, thanh can minh mục, chỉ huyết lợi niệu. Dùng cho các trường hợp chảy máu cam, thổ huyết khái huyết, niệu huyết, tiện huyết, kinh nguyệt nhiều, đau mắt đỏ (viêm sưng kết mạc mắt), phù nề đầy trướng. Liều dùng: cây tươi 50 - 100g, dạng khô 10 - 15g. Có nhiều cách dùng như nấu hãm, ép nước. Món ăn thuốc có tề thái: Chè

Chữa rối loạn tiêu hóa với cây ngải cau

Hình ảnh
Cây ngải cau còn có tên là tiên mao, cồ nốc lan, sâm cau, tại một số địa phương vùng cao bà con gọi là soọng ca, thài léng,… thuộc họ tỏi voi lùn. Là loại cây thảo, sống lâu năm, cao 20 - 30cm hay hơn. Thân rễ mập, hình trụ dài, mọc thẳng, thót lại ở hai đầu, mang nhiều rễ phụ. Lá 3 - 6 hình mũi mác hẹp, xếp nếp và có gân như lá cau. Cụm hoa 3 - 5 hoa nhỏ màu vàng. Cây ngải cau Bộ phận dùng để làm thuốc là thân rễ, có tên dược liệu là tiên mao. Người ta thu hái quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu. Đào lấy củ rễ về rửa sạch, cạo bỏ vỏ ngoài, ngâm nước vo gạo một đêm rồi phơi hoặc sấy khô. Theo Đông y, ngải cau có vị cay, tính ấm, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt. Thường dùng chữa cho nam giới thận dương hư suy, tinh lạnh, liệt dương, tay chân yếu mỏi; phụ nữ tử cung lạnh, khí hư bạch đới, tiểu đục; người cao tuổi thường bị tiểu đêm, tiểu són, lạnh bụng, lưng, gối lạnh đau, phong thấp, vận động khó khăn, suy nhược t

Chữa đau bụng do lạnh với rau muối

Hình ảnh
Rau muối thường mọc ở các bãi sông, ven đường, ruộng và nương rẫy bỏ hoang thường được bà con miền núi, ven biển sử dụng làm rau nấu canh ăn có tác dụng thanh nhiệt. Cây rau muối đã có vị mặn nên khi chế biến nên không cần bỏ muối. Loài cây thảo mà mặt lá có những điểm trắng rất nhỏ như giọt sương muối nên được gọi là cây rau muối. Thân cây nhẵn, phân nhánh nhiều. Lá mọc so le, có cuống ngắn, các lá phía dưới lớn hơn, có hình thoi, có răng lượn sóng ở mép, lá có màu lục trắng và có phấn (do có lông mọng nước, làm cho mặt lá như rắc bột, rắc muối). Hoa tập hợp thành chùm, bao hoa trắng không cuống, nhuỵ có 2 đầu nhuỵ. Quả bế; hạt óng ánh, màu đen. Mùa ra hoa khoảng tháng 2 - 6, có quả vào mùa thu. Rau muối có tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn. Toàn cây được sử dụng làm thuốc, thân cây có lá chứa 87,7% nước, 5,3% protein, 1,2% glucid và khoáng toàn phần 2,2%. Ngoài ra cây có các muối khoáng như: calcium, phospho, vitamin C… Theo Đông y, rau muối có vị ngọt, tính bình, có tác dụng thanh nhi

Công dụng của củ nâu

Hình ảnh
Hỏi: Củ nâu ngoài công dụng dùng nó để nhuộm vải còn được làm thuốc hay không? (Nguyễn Văn Dũng - Tây Ninh) Trả lời: Củ nâu còn gọi là khoai leng, vũ dư lương. Tên khoa học Dioscorea cirrhosa Lour. Thuộc họ Củ nâu Dioscoreaceae. Mô tả cây Dây leo thân nhẵn, ở gốc có nhiều gai. Lá mọc cách ở gốc, mọc đối ở ngọn. Hoa mọc thành bông. Củ ở trên mặt đất tròn, vỏ sần sùi , màu xám nâu, thịt đỏ hơi trắng. Mặc dù tên khoa học chỉ xác định có một nhưng trên thực tế người ta thấy có mấy loại củ nâu: - Củ nâu dọc đỏ; củ xám vàng nhạt, vỏ không sần sùi, nhựa màu đỏ nhạt. Loại củ nâu này nhuộm vải cho màu bóng. - Củ nâu dọc trai hay củ nâu dọc dưa; vỏ thường bị nứt, màu nâu xám nhạt, nhựa đỏ hơn loại trên. - Củ nâu trắng hay củ nâu tẻ; vỏ củ có rãnh, màu nâu đỏ nhạt, nhựa màu vàng nhạt hơi hồng; người ta thường dùng loại củ nâu này để nhuộm những nước đầu tiên rồi mới nhuộm những loại củ nâu đỏ nói trên vì người ta cho rằng loại củ nâu này làm cho vải thêm dày và bền. Phân bố thu hái và chế biến C

Linh chi chống suy nhược

Hình ảnh
Linh chi tư bổ cường thân, chữa trị suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, mất sức. Dưới đây là những món ăn chế biến từ linh chi. Chè linh chi bồi bổ cơ thể: Vật liệu: linh chi 10g, nếp 50g, lúa mì 60g, đường trắng 30g. Cách làm - cách dùng: linh chi rửa sạch, thái lát, bọc trong vải mùng. Nếp, lúa mì vo sạch. Tất cả cho vào nồi đất, đổ 3 chén nước, ninh với lửa nhỏ, sau đó bỏ ra bọc thuốc, nêm đường thì dùng. Ngày 1 lần, dùng sau bữa cơm chiều. Chè linh chi Công hiệu: dưỡng tâm, ích thận, bổ hư, hỗ trợ điều trị chứng tâm thần bất an, mất ngủ, mất sức, ra mồ hôi, mồ hôi trộm, ớn lạnh… Rượu linh chi - hoài sơn tư âm, sinh tân: Vật liệu: linh chi, hoài sơn, ngô thù du, ngũ vị tử với mỗi thứ 15g, rượu trắng 1,5 lít. Cách làm - cách dùng: tất cả vật liệu thái nhuyễn, bọc trong túi vải, đặt trong keo, đổ vào rượu trắng, đậy kín, để nơi thoáng mát, mỗi ngày lắc 1 lần, ngâm 1 tháng thì dùng. Ngày 2 lần, mỗi lần 10ml. Uống lâu dài. Công hiệu: tư âm sinh tân. Thích hợp dùng điều trị các chứng

Chữa tiêu hóa kém với cỏ cú

Hình ảnh
Cỏ cú còn gọi là cỏ gấu, củ gấu, củ gấu biển, củ gấu vườn, hải dương phụ, họ Cói, là loài cỏ sống lâu niên cao 20 - 30 cm. Theo Đông y, rễ chùm (củ) của cỏ cú để điều chế vị thuốc được gọi là hương phụ có vị cay, hơi đắng, hơi ngọt, tính bình... Cỏ gấu là một loại cỏ sống lâu nǎm; lá nhỏ hẹ, ở giữa lưng có gân nổi lên, cứng và bóng, phần dưới lá ôm lấy thân cây; thân rễ phát triển thành củ; tuỳ theo đất rắn hay xốp củ phát triển to hay nhỏ. ở vùng bờ biển củ to, dài, chất lượng dược liệu tốt hơn, thường gọi là hải hương phụ (hương phụ vùng biển). Vào tháng 6, trên ngọn cây có 3 đến 8 cụm hoa hình tán màu xám nâu; nhụy có đầu núm chia thành 2 nhánh như lông tơ; quả 3 cạnh màu xám. Củ gấu có thể thu hoạch quanh nǎm. Thông thường, người ta đào củ về rửa sạch đất cát, phơi khô, đốt cho cháy hết lông, cất nơi khô ráo đề dùng dần làm thuốc. Cây cỏ cú Theo Đông y, rễ chùm (củ) của cỏ cú để điều chế vị thuốc được gọi là hương phụ có vị cay, hơi đắng, hơi ngọt; tính bình có công dụng chữa kinh

Hà thủ ô bổ can, thận

Hình ảnh
Hà thủ ô còn gọi là giao đằng, thủ ô, dạ hợp... Tên khoa học: Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson., họ rau răm (Polygonaceae). Hà thủ ô là rễ củ phơi hay sấy khô của cây hà thủ ô. Theo Đông y, hà thủ ô vị đắng ngọt chát, tính hơi ôn, vào các kinh can và thận. Tác dụng bổ can thận, dưỡng huyết bổ âm giải độc, nhuận tràng thông tiện. Hà thủ ô dùng cho người can thận âm hư, huyết hư, đau đầu hoa mắt chóng mặt, đau lưng mỏi gối ù tai điếc tai, râu tóc bạc sớm, di tinh, huyết trắng, táo bón, hội chứng lỵ mạn tính, trĩ xuất huyết, sốt rét, lao hạch, bệnh mạch vành, tăng huyết áp, mỡ máu cao, xơ vữa động mạch. Liều dùng: 12 - 60g. Bổ huyết thì dùng hà thủ ô chế; nhuận tràng thông tiện thì dùng hà thủ ô sống. Hà thủ ô đỏ. Một số bài thuốc trị bệnh có hà thủ ô: Trị chứng buồn bực, mất ngủ, mộng mị: dạ giao đằng 12g, đan sâm 12g, trân châu mẫu 60g. Sắc uống ngày 1 thang. Bổ huyết, an thần, dùng cho người huyết hư, lo lắng, mất ngủ, râu tóc bạc sớm: hà thủ ô chế 12g, bắc sa sâm 12g, quy bản 12

Vị thuốc từ rễ cây qua lâu

Hình ảnh
Cây qua lâu (trichosanthes kirilowi maxim.) thuộc họ bí (cucurbitaceae), có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua (tên gọi ở miền Bắc, dây bạc bát, bát bát châu (tên miền Nam), người Tày gọi là thau ca. Đó là một dây leo có rễ củ thuôn dài thắt khúc. Lá mọc so le, hình tim, xẻ 5 thùy nông, có khía răng, mặt trên điểm những chấm trắng, tua cuốn chia nhánh. Hoa đơn tính màu trắng, đầu cánh có nhiều sợi dài; hoa đực mọc thành cụm dài, hoa cái đơn độc ở kẽ lá. Quả hình cầu hoặc hình trứng, màu lục có dọc trắng, khi chín màu đỏ, hạt nhiều, hình trứng dẹt, màu nâu. Rễ cây qua lâu còn gọi là qua lâu căn, tên thuốc trong y học cổ truyền là thiên hoa phấn. Dược liệu có màu vàng hoặc nâu nhạt ở mặt ngoài, mặt cắt màu trắng có điểm mạch gân màu vàng, thể chất cứng rắn, khó bẻ gãy, vị nhạt sau hơi đắng, chua, không mùi, tính hàn, có tác dụng sinh tân dịch, chỉ khát, nhuận táo, giảm đau chữa sốt nóng, đái tháo đường, miệng khô, khát nước, đoản hơi, hoàng đản, lở ngứa, sưng tấy, trĩ rò.

Phân biệt dừa nước và dừa cạn

Hình ảnh
Dừa nước hay còn gọi là rau dừa nước, hay du long thái (rau giống con rồng đang bơi) [Ludwwigia adscendans (L.) Hara], họ rau dừa nước (Onagraceae) là loại thảo, mọc bò, nổi trên mặt nước nhờ các phao xốp trắng, hình trứng. Thân hình trụ, mềm yếu, có rễ ở các mấu. Lá mọc so le, gốc thân đầu tù, hai mặt nhẵn. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá, màu trắng. Quả nang. Cần phân biệt với cây dừa nước (Nypa fruticans Wurmb. họ cau) mọc ở các rạch nước lợ ở một số vùng biển miền Nam: Cà Mau, Gò Công, Tân An... Ở Việt Nam, rau dừa nước phân bố ở hầu hết các tỉnh đồng bằng, trung du và vùng núi thấp. Thường mọc ở đầm lầy, ao hồ. Có thể thu hái quanh năm, nhiều nhất vào mùa thu, dùng tươi hay phơi khô. Trong rau dừa nước có chứa các thành phần flavonoid, tanin, chất nhầy, nhiều muối K, Na. Theo YHCT, rau dừa nước có vị ngọt, nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, mát máu, giải độc. Rau dừa nước được dùng trong để chữa cảm sốt, ho khan, tiểu đục, phù thũng, lỵ ra máu. Đắp ngoài chữa sưng, lở, vết

Sơn chi tử giải độc, lợi tiểu

Hình ảnh
Sơn chi tử là quả của dành dành núi (Gardenia stenophylla Merr) thuộc họ cà phê (Rubiaceac), tên khác là thủy hoàng chi, thường mọc ở ven bờ suối hoặc chân đồi giáp với ruộng nước. Sơn chi tử thu hái khi chín, ngắt bỏ cuống, phơi hoặc sấy nhẹ đến khô. Khi dùng ngâm quả vào nước sôi hoặc đem đồ khoảng nửa giờ rồi bóc vỏ lấy nhân. Nhân có thể để sống có tác dụng thanh nhiệt, sao qua dùng chín để tả hỏa hoặc sao đen để cầm máu. Sơn chi tử. Dược liệu có vị đắng, tính hàn, có tác dụng tả hỏa, giải độc, lợi tiểu, chỉ huyết, được dùng trong những trường hợp sau: Chữa tinh hoàn sưng đau: sơn chi tử (sao đen) 30g, tiểu hồi (sao với muối) 30g, hạt quýt (sao với giấm) 30g, hạt vải 30g, ích trí nhân 20g, hạt cau rừng 15g, thanh bì (sao với dầu vừng) 18g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, mỗi lần uống với 6g với rượu vào lúc đói. Nếu không uống được rượu, lấy 10 sợi cỏ tím sắc với nước, thêm ít muối rang làm thang mà uống. Chữa nôn mửa: sơn chi tử (sao) 10g, trần bì 10g, tinh tre 10g, gừng sống 5g sắc v

Mướp

Hình ảnh
Mướp là một loại rau quả dùng phổ biến trong nhân dân, được chế biến thành nhiều món ăn ngon, thanh mát trong mùa hè. Bên cạnh đó, mướp còn là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh. Cây mướp thuộc loại dây leo, thân có nhiều tua cuốn bò lan trên giàn, hoa màu vàng, trái thuôn dài có màu xanh nhạt, chứa nhiều dưỡng chất, vị ngọt, tính bình, có mùi thơm nhẹ. Mướp có hai loại: mướp trâu là loại quả to, màu xanh đậm; mướp hương quả nhỏ, màu xanh nhạt và có mùi thơm ngát. Cả hai loại đều dùng làm thực phẩm và làm thuốc. Phân tích thành phần dinh dưỡng, trong 100g mướp có chứa 95g nước, 0,9g protit, 0,1g lipit, 3g ghucit, 0,5gr xeluloza, 28mg sắt, 160mcg betacaroen, vitamin B, C... Mướp giàu sinh tố, khoáng vi lượng, chất nhớt và chất xơ rất tốt cho cơ thể. Mướp được dùng chữa bệnh như sau: Món ăn lợi sữa: Mướp tươi 1 quả, muối ăn 10g. Mướp gọt vỏ, rửa sạch, cắt miếng cho vào nồi, thêm 1 lít nước, cho muối vào đun sôi, cho sản phụ uống đến khi sữa ra nhiều. Hoặc dùng móng giò lợn nấu mướp để ăn